Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sĩ và người có công với đất nước

PGS TRẦN ĐÌNH HUỲNH
Nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng thuộc Viện Mác - Lê-nin và tư trưởng Hồ Chí Minh

XDĐ - Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong niềm vui và tự hào, chúng ta càng nhớ tới công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại, ngọn cờ dẫn dắt toàn dân tộc đứng lên đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, góp phần đưa đất nước Việt Nam đạt nền tảng vững chắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, tự tin vươn lên sánh vai với bạn bè năm châu trong kỷ nguyên mới.

Ngày 2-9-1955, Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội._Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh 

Để động viên các gia đình có người đã hy sinh, ngày 2-10-1945, Bác Hồ đến Nhà thờ Lớn (Hà Nội) làm lễ cầu hồn cho các chiến sĩ hy sinh ở miền Nam và trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 20-11-1945, Người đề nghị Chính phủ ra Sắc lệnh truy tặng công danh 5 liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc tại quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ ngày 12-11-1945.

Ngày 7-11-1946, chia sẻ nỗi đau mất mát với thân nhân liệt sĩ, Bác đề ra chủ trương về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(1).

Tháng 1-1947, trong Thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng - Giám đốc Y tế Bắc Bộ, Người viết: “Tôi được báo cáo rằng: con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột”, “Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng”(2).

Sau đó, Bác Hồ ký một loạt sắc lệnh giải quyết chế độ chính sách cho thương binh, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, như: Sắc lệnh 20-SL, ngày 16-2-1947, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho tử sĩ; Sắc lệnh số 58-SL, ngày 6-6-1947, tặng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập để thưởng, truy tặng cho đoàn thể hay những người có công với nước, với dân, hay tặng cho các nhân vật ngoại quốc đã có công với nước Việt Nam và quy định việc tặng thưởng. Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền các cấp hoạt động, ngày 3-10-1947, Người ký Sắc lệnh số 101-SL về việc thành lập Sở/Ty thương binh, cựu binh ở khu và tỉnh,… về sau Người còn đặt ra Bảng vàng danh dự, Bằng gia đình vẻ vang và truy tặng, phong tặng các danh hiệu Anh hùng, huân chương, huy chương cho các liệt sĩ, thương binh.

Sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ thể hiện rõ khi Người cho rằng, cần phải có Ngày Thương binh - Liệt sĩ để “tưởng nhớ những người con đã để lại một phần thân thể hoặc bỏ mình trong khi làm nhiệm vụ vinh quang, đem xương máu đắp thành bức tường đồng, thành con đê vững chắc để ngăn chặn giặc ngoại xâm…”. Tháng 6-1947, Bác Hồ đã chỉ thị chọn 1 ngày trong năm làm ngày “Ngày Thương binh - Liệt sĩ”. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Người, Hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nhất trí lấy ngày 27-7-1947 là “Ngày Thương binh - Liệt sĩ”.

Nǎm 1947, trong hoàn cảnh cả nước phải gắng sức diệt ba thứ giặc: Giặc dốt, giặc đói và giặc ngoại xâm, ngày 17-7-1947, Người đã có Thư gửi Ban Thường trực của Ban Tổ chức kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ, trong thư có đoạn: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(3).

Người đề nghị ngày 27-7 là dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh. Mọi người tùy hoàn cảnh cụ thể của mình, nên có hành động giúp đỡ “nhường cơm, sẻ áo” đối với các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ và có hành động động thiết thực là mỗi người (trừ cụ già, em nhỏ) nhịn ăn một bữa để lấy gạo giúp đỡ, riêng tôi: “Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ)”(4).

Tháng 7-1948, trong Thư gửi thương và bệnh binh, Người căn dặn thương, bệnh binh cố gắng chăm lo sức khỏe, đồng thời cố gắng học tập. Khi có sức khỏe, các đồng chí sẽ hăng hái tham gia công tác, tăng gia sản xuất để giúp ích cho Tổ quốc, cũng như các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương, cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận.

Tháng 9-1951, Người viết Thư gửi anh em thương, bệnh binh trại Dệt Chiếu (ở tỉnh Tuyên Quang). Người ân cần hỏi thăm anh em thương, bệnh binh mất bao nhiêu thời gian, công sức để dệt được một chiếc chiếu và nghề dệt chiếu có đủ ăn, đủ mặc không, Người gửi biếu lại anh em thương, bệnh binh bộ áo mà chị em phụ nữ biếu để làm giải thưởng thi đua.

Ngày 5-6-1952, Người viết loạt bài tuyên dương công trạng các anh hùng, chiến sĩ thi đua, trong đó có bài viết cảm động về người thương binh anh hùng lao động Ngô Gia Khảm - người đúc quả lựu đạn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam - bị thương ba lần vì cứu nhà máy, lần thứ ba hỏng cả mắt, mũi, miệng, mất cả hai tay vẫn không nản chí, đêm ngày cố gắng vượt mọi khó khăn, kiên quyết thi đua lao động vượt mức đề ra.

Ngày 27-7-1959, trong Thư gửi anh em thương binh và gia đình liệt sĩ, Người chúc các gia đình liệt sĩ trở thành gia đình cách mạng gương mẫu. Người khen ngợi những gương thương binh điển hình: đồng chí Lê Danh ở tập đoàn Sao Mai (tỉnh Hải Dương), Lưu Văn Bổng ở tập đoàn Quang Vinh (tỉnh Quảng Bình) được thưởng Huân chương và những thương binh cụt tay, chân vẫn lập thành tích sản xuất, được tín nhiệm bầu làm chủ tịch xã, chủ nhiệm hợp tác xã ở các tỉnh: Thái Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa,... Hành động của các đồng chí minh chứng “Thương binh tàn mà không phế”.

Người ân cần nhắc nhở anh em thương binh, sống với nhân dân không nên có những đòi hỏi quá đáng, không được tỏ ra “công thần” vì đã có thành tích chiến đấu. Phải luôn gần dân, tôn trọng nhân dân, khiêm tốn học hỏi, cố gắng tùy theo sức của mình mà tham gia công tác sản xuất, công tác xã hội ở địa phương, luôn phấn đấu giữ vững truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Những anh em an dưỡng, điều dưỡng ở các trại bị thương tật nặng hãy yên tâm điều trị, không được bi quan chán nản.

Người nhiều lần gửi thư cho Bác sĩ, Bộ trưởng Vũ Đình Tụng vào Ngày Thương binh - Liệt sĩ, đề nghị chuyển một tháng lương của mình, cùng áo và khăn tay mà đồng bào gửi biếu để làm quà cho thương binh. Người còn gợi ý hết sức tỉ mỉ, cụ thể về việc động viên đồng bào đón thương binh về xã để nuôi dưỡng, trích một phần đất công hoặc mượn đất của những điền chủ hảo tâm, hoặc vỡ đất hoang, tổ chức sản xuất, lấy lương thực, thực phẩm để bảo đảm đời sống cho thương binh, coi đây là nghĩa vụ “đền ơn đáp nghĩa” chứ không phải “làm phúc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng tầm công tác thương binh, liệt sĩ lên như một hoạt động văn hóa, một sự kế tục, ở quy mô toàn xã hội, kế thừa truyền thống nhân nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc Việt Nam. Không chỉ ca ngợi thương binh, liệt sĩ, mà từ lời nói đến việc làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gương mẫu đi đầu trong những hành động thiết thực. Hằng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, khẳng định công lao, đóng góp và động viên thương, bệnh binh: “các đồng chí đã anh dũng giữ gìn non sông, các đồng chí sẽ trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận”(5). Mỗi dịp lễ, tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đặt vòng hoa viếng tại Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ ở Hà Nội. Người gửi lời nhắn nhủ ân tình: “Ngày mai là năm mới, là ngày đồng bào và bộ đội mừng Chính phủ về Thủ đô. Trong lúc cả nước vui mừng, thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Bác thay mặt nhân dân, Chính phủ và bộ đội kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn bất diệt của các liệt sĩ”(6)

 Tháng 5-1968, mặc dù đang ốm nặng, Người vẫn đọc lại bản thảo Di chúc và viết bổ sung một số nội dung, trong đó có đoạn: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”(7). Người căn dặn, đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ), mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ Tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến đặt vòng hoa, dâng hương tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ tại Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ (đường Bắc Sơn, Hà Nội), ngày 24-7-2025_Ảnh: nhandan.vn 

Thực hiện theo di huấn của Người, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn quan tâm, chăm lo thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Các thương, bệnh binh trong toàn quốc luôn thực hiện theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gương mẫu, đi đầu trong mọi mặt của đời sống xã hội ở địa phương.

Trên cả nước, có nhiều chương trình xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc và nuôi dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, quy tập hài cốt liệt sĩ; xây dựng nhà tình nghĩa cho thương binh, gia đình liệt sĩ, cùng với chương trình hỗ trợ vốn giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, miễn viện phí, học phí cho những gia đình chính sách đã được thực hiện.

Mới đây, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023 “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Nghị quyết số 42-NQ/TW tiếp tục khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng về vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó nhấn mạnh: 1- Bảo đảm người có công và gia đình người có công phải có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. 2- Cơ bản hoàn thành việc giải quyết tồn đọng trong chính sách người có công, nhất là tìm kiếm, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ; xây dựng, tu bổ, tôn tạo mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, các công trình ghi công liệt sĩ. 3- Phát huy truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, khuyến khích tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tích cực tham gia các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”.

Để tỏ lòng biết ơn các anh hùng liệt sĩ và các gia đình có công đã không tiếc máu xương chiến đấu oanh liệt với kẻ thù để đem lại ấm no, hạnh phúc cho đồng bào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta quyết tâm đoàn kết phấn đấu làm tròn nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hùng cường, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu, như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./.

--------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 486
(2), (3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 49, 204, 205, 584

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 223
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616


Tác giả:
Nguồn:Tạp chí Xây dựng Đảng số 5 (7-2025) Copy link

Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất