Giải pháp đổi mới lĩnh vực dân tộc và tôn giáo trong kỷ nguyên mới của đất nước
XDĐ - Trong suốt tiến trình cách mạng, lĩnh vực dân tộc và tôn giáo - một bộ phận trong công tác tuyên giáo và dân vận của Đảng luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng, gắn liền với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các chính sách dân tộc và tôn giáo không ngừng được bổ sung, hoàn thiện; lĩnh vực dân tộc và tôn giáo tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò chiến lược, then chốt để đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.
(1).jpg)
Vai trò lịch sử chiến lược của lĩnh vực dân tộc và tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo và rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ tầm quan trọng chiến lược của công tác dân tộc và tôn giáo trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các nghị quyết, văn kiện các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều nhất quán khẳng định quan điểm, chính sách: Dân tộc, tôn giáo là bộ phận cấu thành quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời xác định rõ các nội dung cốt lõi trong chính sách dân tộc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở phát huy bản sắc văn hóa và quyền bình đẳng; Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn văn hóa dân tộc với yêu cầu hội nhập và hiện đại hóa…. Các nội dung cốt lõi trong chính sách tôn giáo: Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân…; Tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; Bảo đảm quyền sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng giữa các tôn giáo; Phát huy các giá trị tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội; Kiên quyết đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước…(1). Quan điểm, chính sách nhất quán ấy đã tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định chính trị - xã hội, xây dựng niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Trong suốt các thời kỳ cách mạng, dân tộc và tôn giáo không chỉ là lĩnh vực đặc thù mà còn là phương thức vận động toàn dân đoàn kết, đóng góp cho sự nghiệp chung của đất nước. Những quan điểm trên được Nhà nước thể chế hóa thành các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý ngày càng đầy đủ cho việc thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo một cách chủ động, nhất quán và hiệu quả.
Công tác tuyên giáo và dân vận của Đảng đối với lĩnh vực dân tộc và tôn giáo vừa có tính bao trùm, vừa có vai trò then chốt trong triển khai chủ trương, chính sách dân tộc và tôn giáo vào cuộc sống. Công tác tuyên giáo và dân vận vừa góp phần định hướng tư tưởng, hình thành nhận thức đúng đắn trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; đồng thời là phương thức “đi vào lòng dân”, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và tín đồ các tôn giáo; phát huy sức mạnh vật chất, tinh thần - văn hóa to lớn của các cộng đồng dân tộc và tôn giáo cho công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá, công tác tuyên giáo và dân vận có vai trò tiên phong trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.
Định vị lĩnh vực dân tộc và tôn giáo trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, công tác dân tộc, tôn giáo là nhiệm vụ chiến lược trong việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược cơ bản, lâu dài, xuyên suốt và là một trong những động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào tôn giáo là những thành tố quan trọng không thể tách rời. Lĩnh vực dân tộc và tôn giáo chính là cầu nối tinh thần, là nội dung và phương thức để Đảng củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận và huy động sức mạnh tổng hợp trong toàn xã hội cho sự nghiệp cách mạng vì lợi ích của đất nước và dân tộc Việt Nam.
Trong kỷ nguyên mới, khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các cộng đồng dân tộc và tôn giáo vừa đối diện với nhiều cơ hội vươn lên khẳng định và phát triển, vừa đứng trước những nguy cơ bị chia rẽ, mai một hoặc bị lợi dụng. Lúc này, vai trò định hướng của công tác tuyên giáo và dân vận càng trở nên đặc biệt quan trọng. Việc kiên trì, khéo léo kết hợp giữa tuyên truyền, vận động, chăm lo cho đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và tôn trọng sự khác biệt là chìa khóa để tăng cường đoàn kết, gìn giữ sự hài hòa trong cộng đồng dân tộc - tôn giáo đa dạng của Việt Nam.
Thứ hai, công tác dân tộc và tôn giáo là trụ cột tinh thần trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề “dân tộc và tôn giáo” để xuyên tạc, kích động, âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết, gây mất ổn định chính trị - xã hội, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Các hình thức “diễn biến hòa bình” không chỉ diễn ra trên mặt trận tư tưởng - văn hóa nói chung, mà còn len lỏi vào cộng đồng dân tộc thiểu số, các tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, nơi cuộc sống còn khó khăn, hạn chế trong tiếp cận thông tin. Hiện nay, bên cạnh xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hội nhập thế giới, còn xuất hiện trở lại chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ, tư tưởng nước lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi,… các thế lực thù địch tiếp tục dựa vào đó, một mặt đe dọa quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, mặt khác âm mưu xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về “quyền dân tộc tự quyết”, về “tự do tôn giáo” để kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc và tôn giáo cực đoan; chúng kêu gọi đồng bào dân tộc thiểu số từ bỏ lợi ích chung của dân tộc Việt Nam, đòi “tự trị”, “ly khai”, “thành lập nhà nước riêng”,…
Chính vì vậy, công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo không chỉ mang tính văn hóa hay xã hội mà còn là một mặt trận chính trị - tư tưởng trọng yếu. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc và tôn giáo là nhiệm vụ then chốt để bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình và ổn định để phát triển đất nước. Trong đó, chủ động tăng cường truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị - pháp luật, ý thức tuân thủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực dân tộc và tôn giáo cho nhân dân cả nước nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo nói riêng, đồng thời phát huy vai trò của người có uy tín, các chức sắc tôn giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thứ ba, công tác dân tộc và tôn giáo là phương thức phát triển bền vững dựa trên nội lực văn hóa - tín ngưỡng - tôn giáo.
Một quốc gia phát triển bền vững là quốc gia biết phát huy hiệu quả nội lực, đặc biệt là nội lực văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc, cùng nhiều tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống, lĩnh vực công tác dân tộc và tôn giáo chính là một “hệ sinh thái mềm” nuôi dưỡng giá trị cốt lõi của quốc gia.
Ở đây, bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ là dấu hiệu nhận diện mỗi cộng đồng mà còn là hệ giá trị kết tinh qua hàng trăm năm lịch sử, gắn với điều kiện sinh tồn, môi trường tự nhiên và trí tuệ cộng đồng; là thành tố quan trọng tạo nên sự đa dạng thống nhất, góp phần làm nên cốt cách, bản lĩnh và sức sống bền bỉ của dân tộc Việt Nam. Các dân tộc thiểu số lưu giữ những tri thức bản địa quý báu, từ nông nghiệp tuần hoàn đến y dược cổ truyền, từ lối sống gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên đến cách tổ chức cộng đồng.
Các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống lại mang theo những giá trị đạo đức, nhân văn sâu sắc như tình thương, sự bao dung, trách nhiệm với cộng đồng, môi trường... Tôn giáo và tín ngưỡng, nếu nhìn từ góc độ văn hóa - xã hội, không phải là trở lực mà chính là nguồn lực phát triển. Dù khác nhau về hệ niềm tin, nghi lễ hay hình thức tổ chức, nhưng hầu hết các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống đều truyền tải những giá trị phổ quát: lòng nhân ái, vị tha, hướng thiện, sống vì cộng đồng, tôn trọng tự nhiên và luật lệ xã hội. Tại nhiều địa phương, các tổ chức tôn giáo đã và đang tham gia tích cực vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo, người yếu thế.
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, tín ngưỡng truyền thống dù không được tổ chức như các tôn giáo lớn, nhưng lại có vai trò quan trọng trong duy trì kỷ cương, đạo lý và gắn kết cộng đồng. Các lễ hội, nghi thức, hệ thống tín ngưỡng bản địa như thờ rừng, thờ đá, thờ tổ tiên… phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên, với tổ tiên và cộng đồng – một nền tảng triết lý sinh thái sâu sắc cần được khai thác trong thời đại phát triển xanh.
Đất nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng, toàn diện với thế giới, cùng xu thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững thông qua kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phòng, chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, thì phát huy bản sắc văn hóa truyền thống - tín ngưỡng - tôn giáo chính là những cơ sở, “nguồn lực mềm” vô cùng quý giá. Ở đây, công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo phải “kích hoạt” những vốn quý, giá trị tiềm năng, lợi thế này trở thành động lực mới phát triển nhanh, bền vững các địa phương, nhất là địa bàn còn nhiều khó khăn; góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, phát triển kinh tế xanh, du lịch sinh thái, bảo vệ môi trường,…
Thứ tư, công tác dân tộc và tôn giáo là công cụ hòa giải, phòng ngừa mâu thuẫn, xung đột xã hội và những biến động của thời cuộc.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội đất nước phát triển, mức sống của đại bộ phận nhân dân được nâng lên, nhất là ở các vùng đang tập trung đô thị hóa, phát triển hạ tầng mạnh mẽ, sự chênh lệch về kinh tế, thay đổi sinh kế và giao thoa văn hóa diễn ra ngày càng rõ nét. Quá trình này cũng tiềm ẩn những mâu thuẫn, bất ổn cần có cơ chế điều chỉnh, hòa giải phù hợp. Ở đây, công tác dân tộc và tôn giáo khi được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo và hiệu quả sẽ trở thành giải pháp tích cực giúp làm dịu mâu thuẫn, tăng tính gắn kết và giải quyết các tranh chấp trong cộng đồng một cách nhân văn.
Việc đẩy mạnh đối thoại, tiếp xúc giữa cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với đồng bào dân tộc thiểu số và tín đồ các tôn giáo; xây dựng các kênh để trao đổi, cung cấp thông tin, tiếp nhận phản hồi chính sách; chủ động phát hiện sớm các “điểm nóng tiềm ẩn” để tham mưu, giải quyết, thông qua hệ thống các cơ quan, ban, ngành chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên làm công tác tuyên giáo và dân vận của Đảng và hệ thống chính trị chính là phương thức ngăn chặn xung đột từ gốc rễ, gìn giữ ổn định lâu dài.
_01.jpg)
Đổi mới công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, trong bối cảnh kinh tế - chính trị - an ninh thế giới tiếp tục có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn là xu thế lớn, nền tảng cho phát triển ổn định và thịnh vượng, nhưng ảnh hưởng bởi cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các cuộc xung đột khu vực, những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống,… góp phần hình thành nên một trật tự thế giới mới đa cực, nhiều trung tâm. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn,… đang là động lực thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới của thế giới.
Trong bối cảnh đó, công tác tuyên giáo và dân vận của Đảng trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo không chỉ là hoạt động định hướng tư tưởng, mà còn là phương thức để Đảng khẳng định bản chất nhân văn, dân chủ, vì con người; là công cụ xây dựng niềm tin, tạo sự đồng thuận, lan tỏa chính sách và phát huy nội lực văn hóa - tín ngưỡng trong nhân dân. Bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tích cực của tôn giáo cần được tiếp cận không chỉ như những di sản cần bảo tồn, mà là nguồn lực mềm, trụ cột tinh thần cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, những biến động của thời đại cũng đang đặt ra hàng loạt thách thức: sự mai một bản sắc, sự gia tăng lợi dụng tôn giáo - dân tộc để chia rẽ, sự chồng chéo trong chính sách, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền và cả những hạn chế nội tại của bộ máy thực thi, đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Yêu cầu cấp thiết là phải đổi mới toàn diện công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo: từ nhận thức, tư duy đến nội dung, hình thức và phương thức hoạt động. Cần xây dựng hệ thống chính sách pháp luật đồng bộ, hiện đại, nhân văn, tôn trọng sự đa dạng; cần có cơ chế phối hợp linh hoạt, liên ngành, có chiều sâu; coi cộng đồng là chủ thể, người có uy tín, chức sắc là cầu nối và khoa học - công nghệ là công cụ đắc lực. Quan trọng hơn là hình thành một tinh thần mới trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện, đó là tinh thần tôn trọng - đối thoại - hợp tác giữa Đảng, Nhà nước với các cộng đồng dân tộc, các tổ chức tôn giáo và tín đồ; coi đó là động lực để củng cố niềm tin, tăng cường khối đại đoàn kết, và xây dựng một xã hội Việt Nam phát triển hài hòa, bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa và đạo lý dân tộc.
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, công tác tuyên giáo và dân vận của Đảng trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo đứng trước thời cơ lớn, đồng thời cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới tư duy, nội dung và phương pháp công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo, cụ thể:
Một là, đổi mới tư duy tiếp cận từ “tuyên truyền, vận động” sang “đồng hành và kiến tạo”.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng với thế giới, công tác tuyên giáo và dân vận không thể tiếp tục sử dụng tư duy hành chính hóa hay áp đặt một chiều. Thay vào đó, cần chuyển từ cách tiếp cận “tuyên truyền - vận động - giải thích” sang tiếp cận “đồng hành - thấu hiểu - hỗ trợ”. Đây là bước đổi mới mang tính nền tảng, phản ánh một công tác dân vận hiện đại, dân chủ, nhân văn và hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải coi đồng bào dân tộc thiểu số và tín đồ các tôn giáo không chỉ là “đối tượng tuyên truyền” mà là chủ thể của phát triển, là “đối tác” trong xây dựng và thực hiện chính sách. Khi đó, các hoạt động tuyên giáo và dân vận cần được thiết kế trên cơ sở lắng nghe thực tế cuộc sống, phản hồi từ cơ sở và được tùy biến theo đặc trưng của từng cộng đồng.
Hai là, đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với đặc điểm từng dân tộc, tôn giáo.
Tuyên truyền chính sách dân tộc và tôn giáo trong kỷ nguyên mới phải có chiều sâu, thiết thực và thuyết phục. Nội dung tuyên truyền cần lồng ghép giữa quyền lợi, nghĩa vụ của công dân với giá trị văn hóa, đạo lý và tín ngưỡng của cộng đồng. Ví dụ, khi tuyên truyền về phòng chống hủ tục, cần gắn với lợi ích sức khỏe, tương lai thế hệ sau; khi nói về bảo vệ môi trường, cần lồng ghép với tinh thần “trả ơn rừng” trong tín ngưỡng truyền thống của người H’Mông hay Dao...
Hình thức tuyên truyền cần đa dạng hóa, tận dụng các kênh văn hóa, nghệ thuật dân gian, lễ hội, các chức sắc tôn giáo, người có uy tín và cả các nền tảng truyền thông số (như mạng xã hội, podcast, video ngắn,…). Một thông điệp đơn giản, đúng lúc, đúng người có thể hiệu quả hơn hàng trăm buổi họp có tính hình thức.
Ba là, phát huy vai trò của người có uy tín, già làng, trưởng bản, chức sắc, nghệ nhân trong công tác tuyên giáo và dân vận.
Thực tế cho thấy, ở nhiều vùng sâu, vùng xa, tiếng nói của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo có vai trò rất quan trọng. Do đó, cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, vinh danh, hỗ trợ người có uy tín để họ trở thành lực lượng nòng cốt của hệ thống tuyên giáo và dân vận tại chỗ. Nên xây dựng các mô hình tập huấn dành riêng cho đội ngũ này và cần được tổ chức theo hình thức linh hoạt, nội dung thiết thực, dễ áp dụng. Đồng thời, nên công nhận vai trò tư vấn, phản biện chính sách của họ trong quá trình xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và vùng có đạo.
Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong công tác tuyên giáo và dân vận.
Chuyển đổi số là xu thế không thể đảo ngược, công tác tuyên giáo và dân vận cũng không nằm ngoài guồng quay này. Việc ứng dụng công nghệ số không chỉ giúp nâng cao hiệu quả truyền thông, mà còn tạo điều kiện tiếp cận nhanh hơn, rộng hơn và hiệu quả hơn đến các nhóm dân cư, kể cả ở vùng sâu, vùng xa. Cần xây dựng các nền tảng nội dung số bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số, nội dung dạng video, podcast, infographic... Cần thiết lập “trung tâm truyền thông cộng đồng” ở cấp xã, nơi tích hợp giữa văn hóa - truyền thông - giáo dục - tôn giáo, làm điểm kết nối chính sách với đời sống dân tộc và tôn giáo. Đặc biệt, trong bối cảnh chúng ta thực hiện xóa bỏ cấp trung gian, tăng cường phân cấp cho xã thì việc hình thành các trung tâm vừa là nhiệm vụ, vừa là nhu cầu để thực hiện nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị ở cơ sở. Bên cạnh đó, dữ liệu số hóa về văn hóa, dân tộc, tín ngưỡng cần được quản lý thống nhất, liên thông giữa các cấp, phục vụ cho việc ra quyết định, đánh giá tác động chính sách và điều chỉnh kịp thời theo phản hồi của người dân.
Năm là, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo.
Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo là chất lượng đội ngũ cán bộ. Do đó, cần có chính sách đặc thù tuyển chọn, đào tạo và bố trí cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo tại chỗ, am hiểu văn hóa bản địa, có kỹ năng vận động mềm dẻo, nhạy cảm chính trị và năng lực đối thoại với nhiều đối tượng có bản sắc văn hóa đa dạng. Bên cạnh đó, cần đào tạo đội ngũ cán bộ trung gian: những người làm công tác truyền thông, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, mặt trận... tại cơ sở để hình thành một “hệ sinh thái dân vận” liên ngành, gắn kết, hiệu quả. Tăng cường vị trí, vai trò trung tâm kết nối của mặt trận Tổ quốc trực tiếp và toàn diện đến các tổ chức thành viên “cùng tiếng nói, cùng hành động, cùng đối tượng” để đồng bộ và hiệu lực ngay tại cơ sở.
Một số nhiệm vụ trọng tâm của lĩnh vực dân tộc và tôn giáo
Trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo của Đảng hiện nay cần quan tâm giải quyết các vấn đề vừa chiến lược lâu dài, vừa cấp thiết đặt ra, như: Tiếp tục củng cố và phát huy khối đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo nhanh và bền vững; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo, truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động là người đồng bào dân tộc thiểu số; cán bộ làm công tác dân tộc và tôn giáo…
Đặc biệt, cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được các cấp ủy, chính quyền triển khai hiệu quả thời gian qua, cần tăng cường bảo vệ quyền tín ngưỡng truyền thống để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, tinh thần và động lực phát triển của đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác tuyên giáo và dân vận không chỉ tuyên truyền và vận động người dân xóa bỏ hủ tục, mà còn phải đồng hành bảo vệ tín ngưỡng gốc như một phần của khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, để công tác này thực sự hiệu quả, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, xác lập cách tiếp cận văn hóa - nhân văn trong công tác tuyên giáo và dân vận, lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Phải coi văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo là yếu tố cấu thành bản sắc và động lực phát triển, thay vì nhìn nhận thuần túy dưới góc độ quản lý xã hội hay an ninh.
Thứ hai, xây dựng hệ thống tuyên truyền chuyên biệt, phù hợp với từng cộng đồng dân tộc, tôn giáo. Nội dung tuyên truyền cần được biên soạn bằng ngôn ngữ, hình ảnh, biểu tượng phù hợp, gắn với giá trị bản địa, đồng thời được truyền tải qua các kênh quen thuộc như lễ hội, nhà thờ, chùa, nhà rông, người có uy tín, chức sắc tôn giáo.
Thứ ba, phát triển đội ngũ cán bộ tuyên giáo và dân vận có chất lượng, am hiểu đa văn hóa, có kỹ năng số và khả năng đối thoại. Cần tuyển chọn và đào tạo lớp cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số, tín đồ tôn giáo có năng lực, tâm huyết để làm cầu nối hiệu quả giữa Đảng, Nhà nước và cộng đồng.
Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành và huy động sự tham gia của toàn xã hội. Công tác tuyên giáo và dân vận trong lĩnh vực dân tộc và tôn giáo không thể đơn lẻ, mà phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban, bộ, ngành, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức tôn giáo, văn hóa, giáo dục và truyền thông.
Thứ năm, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong công tác tuyên giáo và dân vận. Xây dựng kho dữ liệu số về văn hóa dân tộc, tôn giáo; phát triển nền tảng số để tuyên truyền chính sách; sử dụng các công cụ truyền thông mới để tiếp cận giới trẻ, người dân vùng sâu vùng xa.
Thứ sáu, đưa công tác tuyên giáo và dân vận vào quy hoạch chiến lược phát triển vùng dân tộc, vùng có đạo. Coi đây là trụ cột mềm để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh, củng cố lòng tin và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong kỷ nguyên mới, lĩnh vực công tác dân tộc và tôn giáo không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là một hình thức kiến tạo xã hội từ nền tảng văn hóa và niềm tin. Công tác tuyên giáo và dân vận phải đi trước một bước, tạo “nền móng” tư tưởng và sự đồng thuận để thúc đẩy mọi chính sách phát triển đi vào cuộc sống./.
-------------
(1) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 50, 170, 171



Liên hệ gửi bài và đóng góp ý kiến
Liên hệ quảng cáo: 024 . 39429853