Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước: Cơ sở lý luận của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

LUẬT SƯ TRẦN THU THỦY
Trưởng Văn phòng luật sư Thiên Pháp thuộc Đoàn luật sư Hà Nội

Bài 2: Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp năm 1959_Ảnh: tapchilichsudang.vn

 

5- Quan niệm về dân chủ; kết hợp hài hòa giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, bảo đảm dân chủ trên thực tế

Quan niệm về dân chủ

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông - Tây, đặc biệt đã tiếp thu một cách sáng tạo tư tưởng dân chủ của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin. Người đã có những kiến giải về dân chủ một cách thực tế và phù hợp với hoàn cảnh nước ta, một đất nước chưa qua chủ nghĩa tư bản, chủ động đứng lên làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thiết lập nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập vị trí tối cao của người dân và gắn liền dân chủ với độc lập, tự do hạnh phúc của nhân dân. Người đã chỉ rõ chế độ dân chủ mới ở nước ta là dân chủ của số đông (công nhân, nông dân và những người lao động). Muốn có dân chủ thì giai cấp công nhân phải từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động. Người thấu hiểu, nước ta là một nước nông nghiệp, đại đa số dân cư sống ở nông thôn, vì vậy, bao giờ ở nông thôn, nông dân thực sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự. Bên cạnh đó, những người lao động trí óc cần được tự do sáng tạo và có vị trí to lớn trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới: Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Phụ nữ là một lực lượng đông đảo trong dân cư (trên 50% tổng số dân) nên chế độ dân chủ mới cần giải phóng người phụ nữ, đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến trong người đàn ông. Vì vậy, Người chỉ rõ giải phóng phụ nữ phải coi: Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì trọng trai khinh gái là thói quen mấy ngàn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội... cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình đến toàn dân.

Về vấn đề tự do ngôn luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quyền tự do tư tưởng, quyền được bày tỏ ý kiến của cá nhân và quyền được thảo luận, tranh luận để tìm ra chân lý. Đó là quyền lợi và là nghĩa vụ của mọi người, nghĩa là: Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.

Kết hợp hài hòa giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp

Khi dùng dân chủ đại diện, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không rập khuôn theo mô hình Xô-viết của V.I.Lê-nin, khi đó là nền dân chủ mà cơ sở bầu cử tạo ra các xô-viết là nơi công tác, nơi sản xuất chứ không phải là nơi sinh sống của dân cư. Bởi, nếu bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư thì đấy không phải là những cộng đồng vững chắc, có hiểu biết lẫn nhau, khó thực hiện sự theo dõi và kiểm tra thường xuyên người đại diện mà mình bầu ra. Vì thế, V.I.Lê-nin chọn các đơn vị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, đơn vị quân đội, cơ quan để bầu ra xô-viết theo hình tháp. Các xô-viết bầu ra xô-viết cộng hòa, các xô-viết nước cộng hòa bầu ra Xô-viết tối cao Liên Xô…

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hiểu mô hình Xô-viết, nhưng Người đã kế thừa có chọn lọc thành quả bầu cử nhà nước đại diện của phương Tây, để kết hợp hài hòa giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Năm 1946, khi thế giới và trong nước không thuận lợi cho cách mạng, nhưng chúng ta đã thực hiện được một cuộc bầu cử tự do và dân chủ. Số người ứng cử, số người đi bầu cử cao thể hiện tinh thần trách nhiệm trong nhân dân.

Khi bầu cử ra Quốc hội, quyền lực vẫn thống nhất ở nhân dân. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất chứ không phải là cơ quan được giao tất cả quyền lực. Rõ ràng “cao nhất” với “tất cả” (hay “toàn bộ”) là khác nhau. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “Toàn bộ quyền lực”, hay “tất cả quyền bính” chỉ ở nhân dân mà thôi.

Ở nước ta, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án…, mỗi cơ quan được giao những quyền nhất định. Các tỉnh, cấp dưới cũng được giao một số quyền. Quyền của ai và ai giao? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời dứt khoát: quyền của dân và dân giao.

Làm thế nào mà dân giao quyền mà không mất quyền? Các cơ quan nhà nước được giao quyền mà không tiếm quyền? Đó là một trong những vấn đề lớn nhất của loài người. Trong nhà nước tất nhiên cần có sự phân công giữa các loại quyền khác nhau (lập pháp, hành pháp và tư pháp) và các cấp quyền khác nhau (trung ương, địa phương, cơ sở).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận sự phân công - nhưng cự tuyệt sự phân lập - và đã khéo kết hợp hài hòa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, quyền của Trung ương và của địa phương, cơ sở. Trong sự phân công ấy, mối quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nền hành pháp mạnh, rất mạnh: “Thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946). Đây là một kinh nghiệm lớn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ và vận dụng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chủ trì soạn thảo hai bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959. Trong hai bản Hiến pháp ấy mang rất rõ dấu ấn Hồ Chí Minh và đậm nét Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền dân chủ, về cách tổ chức nhà nước là sự vận dụng kinh nghiệm của dân chủ phương Tây, ý tưởng về nhà nước công - nông của V.I.Lê-nin vào Việt Nam, với phương pháp biện chứng Mác-xít và sự kế thừa kinh nghiệm lịch sử.

Dân chủ trực tiếp đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, tăng cường sự giám sát, tố cáo, khiếu nại, chất vấn của nhân dân và quy định trách nhiệm phải giải trình, giải quyết báo cáo của các cơ quan nhà nước. Để bảo đảm cho nền dân chủ đại diện kết hợp với dân chủ trực tiếp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng chính là Đảng cầm quyền nhưng Đảng không cai trị. Điều khó khăn này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng: Một Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền mà không cai trị.

Bảo đảm dân chủ trên thực tế

Nền dân chủ phương Tây nhìn nhận toàn bộ các quyền mà nhà nước phải bảo đảm cho công dân có ba loại: quyền chính trị, quyền kinh tế và quyền xã hội. Có học giả lại chia quyền đó thành hai loại: một là, những quyền tự do (droit de liberte); hai là, những trái quyền (droit de créance). Quyền tự do là các quyền chính trị và một phần những quyền kinh tế. Quyền đòi hỏi (trái quyền) là những quyền người ta đòi hỏi. Dân có quyền đòi hỏi nhà nước về quyền có công ăn việc làm để có thu nhập cho sức lao động mình bỏ ra, có sự bảo đảm chống lại những tai họa có thể xảy ra trong cuộc sống như tai nạn lao động, các loại bệnh tật, tệ nạn xã hội, bảo hiểm xã hội khi tuổi già, khi về hưu,… Đó không phải là những quyền tự do, mà là những quyền được đòi hỏi ở xã hội, ở nhà nước.

Những quyền ấy (quyền tự do và quyền đòi hỏi), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ từ đầu và khá đầy đủ ở buổi đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phương Tây đặt nền tảng là tự do kinh tế nhưng không phải là ưu tiên kinh tế đối với những người lao động, mà là tự do kinh tế trước hết và trên hết đối với các nhà kinh doanh, là tự do quyền tư hữu tài sản, thuê mướn sức lao động để làm giàu. Tự do kinh tế đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết và trên hết là có công ăn việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Quyền tự do kinh tế với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là cho số đông, tất nhiên Người cũng không quên quyền tự do của giới kinh doanh. Tất cả những vấn đề trên được ghi rất rõ nét trong Hiến pháp năm 1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra các quyền tự do chính trị, kinh tế và xã hội ngay từ đầu, đặt ra một cách thiết thực.

6- Phạm vi hoạt động của nhà nước

Đây là vấn đề đặt ra rất sớm trong lịch sử phát triển của nhà nước. Có thời điểm người ta đồng nhất nhà nước và xã hội bằng cách tạo ra một hình thức cai trị, nhà nước bao trùm toàn xã hội. Đến thời kỳ Phục Hưng, người ta dần dần phân biệt cộng đồng tôn giáo với cộng đồng chính trị, nhà thờ tách khỏi nhà nước. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sau cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng dân chủ tư sản Pháp, nổi lên sự phân biệt giữa xã hội dân sự và xã hội chính trị (tức nhà nước). G.W.Hegel là một trong những người đầu tiên phân biệt giữa xã hội dân sự và nhà nước trong tác phẩm “Nguyên lý triết học về pháp quyền”. Theo ông, xã hội dân sự ở ngoài nhà nước, là mạng lưới dày đặc các mối quan hệ tương tác và trao đổi giữa những cá nhân nhằm thừa nhận những nhu cầu cá nhân, mỗi người có thể theo cách của mình. Cũng cần có sự phân biệt giữa “xã hội dân sự” (sociélé civile) với xã hội công dân là một tên gọi khác của xã hội chính trị, tức là nhà nước (Sciéles des citoyens).

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước quản lý cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại… Điều này hoàn toàn có thể hiểu được, bởi trong 24 năm Người làm Chủ tịch đảng cầm quyền và Chủ tịch nước, Việt Nam không một ngày im tiếng súng. Xã hội dân sự và xã hội công dân, Nhà nước, Đảng, các tổ chức xã hội… tất cả đều phải ưu tiên cho việc chống kẻ thù xâm lược, để giành độc lập thống nhất toàn vẹn non sông. Ngay cả đời sống vợ chồng, là lĩnh vực tình cảm riêng tư của con người cũng phải hòa quyện vào đời sống chính trị, cũng phải “vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Kể cả giới văn nghệ sỹ cũng phải ghi nhớ: “Nay ở trong thơ nên có thép! Nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Trong xã hội dân sự, vấn đề tự do ngôn luận được đặt ra tự nhiên, tuy vậy vì sự nghiệp kháng chiến, các nhà văn hóa cũng cần phải tổ chức chặt chẽ, đi sâu vào quần chúng, phục vụ công - nông - binh, phải thiết thực và rộng rãi để giúp sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của toàn dân. Các nhà văn, nhà báo, mỗi khi viết nên tự hỏi: “Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc”, bởi vì họ cũng là chiến sĩ cách mạng: “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.

Trong tâm thế hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà lãnh đạo quốc gia - rất coi trọng cá nhân và coi trọng cộng đồng, phát huy cá nhân để phát huy cộng đồng nhằm mục đích “nâng cao dân chúng”, để cộng đồng và cá nhân cùng phát triển.

Xe mô hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đi đầu khối diễu binh, diễu hành (2-9-2025)_Ảnh: TTXVN

 

7- Đặt cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân

Học thuyết Nhà nước pháp quyền ra đời cùng với thời đại tư sản, đã được các nước phương Tây vận dụng và giành được những thành tựu đáng kể. Đánh giá về sự thống trị của nhà nước tư sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (năm 1848) rằng: Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước gộp lại. Nhưng cũng chính trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã vạch ra những hạn chế của xã hội tư bản, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay thế chiếm hữu tư bản, thay thế nhà nước tư sản với các quy định phiến diện, hẹp hòi bằng một xã hội tiến bộ hơn. Giai cấp vô sản và những người bạn đồng minh là giai cấp nông dân và những trí thức tiến bộ sẽ thay thế. Giai cấp vô sản phải tiến hành một cuộc đấu tranh, lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc..., giai cấp vô sản mỗi nước phải giành lấy chính quyền, phải tự xây thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc…, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người hiểu thấu sâu sắc và đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng tiến bộ vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người là nhà biện chứng duy vật lỗi lạc, một trong những học trò xuất sắc nhất của C.Mác, đã biết chắt chiu sàng lọc tinh hoa văn hóa nhân loại (cả phương Đông, phương Tây) và truyền thống Việt Nam, đất nước có hàng ngàn năm văn hiến.

(còn tiếp)


Tác giả:
Nguồn:Tạp chí Xây dựng Đảng số 06 (8-2025) Copy link

Bài viết liên quan Bài viết liên quan

Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất