Nhận diện tác động công tác quản lý nhà nước về tôn giáo sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp
XDĐ - Tôn giáo luôn là lĩnh vực xã hội đặc thù, liên quan trực tiếp đến đời sống tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định quản lý nhà nước về tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo, phát huy những nguồn lực của các tôn giáo trong xây dựng và phát triển đất nước. Việc sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên cũng như một số lĩnh vực khác, khi mới triển khai thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo ở chính quyền địa phương 2 cấp cũng sẽ không tránh khỏi những tác động, khó khăn, cần nhận diện để khắc phục, tháo gỡ.

Chủ trương đúng đắn, kịp thời, phù hợp với xu hướng phát triển, được các tổ chức, cá nhân tôn giáo và nhân dân đồng tình, ủng hộ
Trong lịch sử, việc sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện các mô hình chính quyền địa phương luôn được thực hiện phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu phát triển của đất nước, trong đó có Việt Nam.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là xu hướng tất yếu, đúng đắn, kịp thời, với lộ trình thực hiện hợp lý nhằm tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, trong đó có công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Tôn giáo là lĩnh vực đặc thù, nhạy cảm, gắn liền với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, nhưng là bộ phận không thể tách rời của một đất nước, nên chịu tác động trực tiếp từ chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy của chính quyền các cấp. Thực tế cho thấy, việc sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đã và đang tạo ra những tác động tích cực đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương như: Phân định rõ ràng hơn thẩm quyền, trách nhiệm giữa cấp tỉnh và cấp xã, tăng cường tính linh hoạt, chủ động của chính quyền cơ sở, nâng cao hiệu quả nắm bắt tình hình và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn giáo. Chính quyền gần dân, sát cơ sở đã giúp cho nhiều vấn đề tôn giáo được giải quyết kịp thời, hiệu quả, đúng pháp luật và đúng định hướng của Đảng, Nhà nước; rút ngắn được thời gian xử lý các thủ tục hành chính; những đề nghị chính đáng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân tôn giáo kịp thời được giải quyết. Khi địa giới hành chính được điều chỉnh, các cộng đồng tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau có thêm cơ hội giao lưu, học tập, tăng cường tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo…
Nhận diện một số khó khăn, thách thức, cần quan tâm đối với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
Tuy nhiên, khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp cũng bộc lộ một số bất cập, khó khăn, thánh thức, cụ thể:
Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức của các tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước ta đã công nhận 39 tổ chức tôn giáo và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 1 pháp môn, 1 tổ chức thuộc 16 tôn giáo. Khi triển khai thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, đã có một số thay đổi trong mô hình tổ chức hoạt động của các tổ chức tôn giáo hiện nay.
Với Phật giáo: Khi thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đã tác động đến mô hình tổ chức, bộ máy của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, từ 4 cấp xuống còn 3 cấp hành chính đạo.
Với Đạo Cao Đài: Các Họ đạo ở cấp cơ sở thường được đặt tên theo địa giới hành chính của chính quyền cấp xã nên khi thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp sẽ tác động đến việc thay đổi tên của tổ chức tôn giáo trực thuộc là Họ đạo Cao Đài.
Với Phật giáo Hòa Hảo: Việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp sẽ tác động đến các Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cấp xã; số lượng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cấp xã cũng sẽ thu hẹp lại cùng với chủ trương sắp xếp địa giới hành chính cấp xã của chính quyền.
Với Hồi giáo: Việc sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp sẽ tác động đến cơ cấu tổ chức, tên gọi của các Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo (Islam) một số tỉnh miền Nam, miền Trung Tây Nguyên và Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bà-ni một số địa phương cũng sẽ có sự thay đổi để phù hợp với địa giới hành chính mới.
Với các tổ chức tôn giáo: Giáo hội Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam (cơ cấu tổ chức gồm 3 cấp); Bà-la-môn giáo (cơ cấu tổ chức gồm 2 cấp); Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam (cơ cấu tổ chức gồm 2 cấp), khi sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp có ảnh hưởng đến tên gọi, cơ cấu tổ chức.
Các tôn giáo khác như: Công giáo, Tin lành, Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam, Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của chúa Giê-su Ky-tô, Phật hội Tứ ân hiếu nghĩa, Phật hội Hiếu nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu, Minh Sư đạo... nhìn chung việc thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp ít tác động do nguyên tắc tổ chức không phụ thuộc địa giới hành chính hoặc quy mô nhỏ, không phổ biến.
Thứ hai, về tổ chức bộ máy, đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Hiện nay, tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh chưa thống nhất, tương đồng với tổ chức bộ máy ở Trung ương. Đa số các địa phương quy mô lớn, có nhiều tôn giáo đã thành lập Sở Dân tộc và Tôn giáo, nhưng vẫn còn một số tỉnh, thành phố đặt tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc, tôn giáo trong Sở Nội vụ. Do đó sẽ ảnh hưởng đến việc triển khai công việc liên quan đến lĩnh vực tôn giáo.
Sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, nhất là cấp xã, quy mô của đơn vị hành chính rộng lớn hơn; số chức sắc, chức việc, tín đồ đông hơn; số lượng tổ chức, điểm nhóm sinh hoạt tập trung ở cấp xã tăng lên… Thẩm quyền giải quyết hoạt động tôn giáo của cấp huyện cũ nay đã được phân cấp lại cho cấp xã, nên khối lượng công việc tăng lên... Thời gian đầu sau sắp xếp, ở một số địa phương, cán bộ, công chức được phân công phụ trách lĩnh vực tôn giáo còn chưa được lựa chọn chính xác… dẫn tới lúng túng trong công việc, hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo chưa bảo đảm theo yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.
Thứ ba, về lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về công tác tôn giáo” đã xác định công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cần phải có sự vào cuộc phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị chức năng liên quan. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi khối lượng công việc gia tăng, phạm vi địa bàn quản lý mở rộng, số lượng cán bộ, công chức không nhiều. Do đó, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương, cơ sở cần có cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, phối hợp rõ ràng, không để xảy ra tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, phối hợp thiếu chặt chẽ, chậm xử lý, giải quyết các vấn đề, vụ việc liên quan đến tôn giáo…
Trước đây, một số cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là ở cơ sở nhận thức chưa đầy đủ về công tác tôn giáo nói chung, quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng; có sự khác biệt trong ứng xử giữa các tổ chức tôn giáo, trong việc đối thoại, vận động chức sắc, chức việc... Sau khi sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính dẫn đến tình trạng có nhiều quan điểm khác nhau trong xử lý, giải quyết các vấn đề, vụ việc liên quan đến tôn giáo, thiếu thống nhất trong chỉ đạo, làm tiến độ xử lý, giải quyết chậm, không hiệu quả.
Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc sắp xếp tổ chức, nhân sự, bàn giao hồ sơ sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết một số thủ tục hành chính hoặc các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của tổ chức, cá nhân tôn giáo, ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Nếu để lâu dài, dễ trở thành cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết, an ninh trật tự.
Thứ tư, các chức sắc, chức việc, tổ chức tôn giáo chưa kịp thích ứng với mô hình hoạt động mới. Sau sắp xếp, tổ chức, cá nhân tôn giáo sẽ phải làm quen với quy trình, cán bộ, công chức giải quyết thủ tục hành chính… tại các cơ quan hành chính mới, địa điểm có thể chưa thuận lợi, gây tốn kém thời gian, chi phí đi lại ban đầu. Việc nộp hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính về tôn giáo bằng phương thức trực tuyến chưa thuận lợi đối với một số tổ chức, cá nhân tôn giáo (do tuổi cao, thao tác công nghệ thông tin hạn chế và những đặc thù khác trong hoạt động tôn giáo).
Thứ năm, mâu thuẫn nội tại dễ bị thế lực thù địch, phản động lợi dụng chống phá. Trước đây nội bộ một số tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thiếu thống nhất, có nơi biểu hiện gay gắt. Quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính đã, đang tiếp tục làm phát sinh thêm các mâu thuẫn.
Bên cạnh đó, có hiện tượng các thế lực thù địch, đối tượng xấu lợi dụng việc hệ thống chính trị đang tập trung vào nhiệm vụ sắp xếp lại tổ chức bộ máy và công tác cán bộ các cấp để tuyên truyền chống phá, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có tình trạng chức sắc tôn giáo chỉ đạo tín đồ lấn chiếm, chuyển nhượng, mua bán đất đai, sửa chữa, xây dựng cơ sở tôn giáo trái pháp luật…

Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trong giai đoạn mới
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng; thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị về tôn giáo và công tác tôn giáo: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”(1) đúng tinh thần Nghị quyết số 25-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về công tác tôn giáo”.
Hai là, ngoài các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đã ban hành trước đây, trong quá trình quản lý nhà nước về tôn giáo, các địa phương, cơ quan, ban, ngành liên quan cần đặc biệt lưu ý: Nghị định số 124/2025/NĐ-CP, ngày 11-6-2025 của Chính phủ “Quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo”; Quyết định số 364/QĐ-BDTTG, ngày 24-6-2025 của Bộ Dân tộc và Tôn giáo “Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, được sửa đổi, bổ sung, bị bãi bỏ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Dân tộc và Tôn giáo”. Đây là 2 văn bản pháp lý quan trọng để các địa phương thực hiện các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo một cách thông suốt.
Ba là, đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong chính sách, nhưng linh hoạt trong thực hiện. Chính quyền cấp xã cần bám sát chủ trương, chính sách của Trung ương và tỉnh, nhưng trong triển khai phải tôn trọng tính đặc thù, đa dạng của tôn giáo, căn cứ vào đặc điểm thực tế của địa phương, tình hình tôn giáo ở từng địa bàn để điều chỉnh cho phù hợp.
Bốn là, thường xuyên xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo nói chung, cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng, bảo đảm đủ trình độ nắm bắt và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, nhất là ở cấp xã. Theo đó, cần rà soát, đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân tộc, tôn giáo, nhất là cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đảm bảo đúng vị trí việc làm, phù hợp với chuyên môn được đào tạo; đảm bảo đủ số lượng, chất lượng để triển khai thực hiện nhiệm vụ. Kịp thời tổ chức các lớp/ khóa bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo các cấp, nhất là cán bộ, công chức mới được phân công phụ trách lĩnh vực tôn giáo, cũng như mở rộng thành phần tham dự thuộc các lĩnh vực quản lý khác (đất đai, xây dựng…).
Năm là, các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp. Trong đó, chú trọng, quan tâm công tác tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong thực hiện đúng các quy định của pháp luật; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lợi dụng tôn giáo gây mất an ninh trật tự, vi phạm pháp luật.
Sáu là, tăng cường phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị. Thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành (Dân tộc và Tôn giáo, Nội vụ, Công an, Quân đội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, Văn hóa - Xã hội, Kinh tế, Quy hoạch, Kiến trúc, Xây dựng…) trong theo dõi, giải quyết các vấn đề tôn giáo; sớm xây dựng và ban hành một cơ chế phối hợp nhịp nhàng, thống nhất nhưng linh hoạt giữa các cấp hành chính, giữa các cơ quan, đơn vị liên quan, nhất là ở cấp xã nhằm bảo đảm hiệu quả quản lý.
Bảy là, đẩy mạnh đối thoại, tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Phát huy vai trò cầu nối giữa chính quyền và tổ chức, cá nhân tôn giáo, tổ chức đối thoại thường xuyên để kịp thời nắm bắt, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn.
Tám là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động tôn giáo. Xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung về tổ chức, cá nhân tôn giáo, có kết nối thông suốt từ Trung ương đến xã, thường xuyên cập nhật tình hình hoạt động để phục vụ công tác quản lý và dự báo. Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ cao đối với các thủ tục hành chính tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tôn giáo khi làm việc với cơ quan nhà nước. Áp dụng công cụ công nghệ số trong giám sát, dự báo, thống kê tình hình tôn giáo và các hoạt động liên quan./.
-----------------------
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 48



Liên hệ gửi bài và đóng góp ý kiến
Liên hệ quảng cáo: 024 . 39429853