Chuyên trang của Tạp chí Cộng sản nghiên cứu, tuyên truyền nghiệp vụ công tác Đảng
Đọc nhiều nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc qua các lời tựa "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"

PGS TRẦN ĐÌNH HUỲNH
Nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng thuộc Viện Mác - Lê-nin và tư trưởng Hồ Chí Minh

XDĐ - Nhờ kiên định, vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc trong học thuyết Mác - Lê-nin nói chung và đặc biệt là từ những chỉ dẫn sâu sắc của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nói riêng, Đảng ta đã có được lý luận tiên phong dẫn đường, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi to lớn. Thực tiễn ấy là một minh chứng cho sức sống bất diệt của “Tuyên ngôn”, vẫn còn vẹn nguyên giá trị tư tưởng trong bối cảnh phát triển mới hiện nay.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen _Tranh: Tư liệu

 

Năm 1872, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: “Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong “Tuyên ngôn” này vẫn còn hoàn toàn đúng”(1). Tuy nhiên, hai ông cũng thừa nhận: “Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần phải xem lại. Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi… “Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại. Có lẽ là trong một lần xuất bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào khoảng trống từ năm 1847 đến nay”(2).

Đó là những chỉ dẫn quan trọng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý của hai ông vào thực tiễn.

1- Sau khi C. Mác qua đời, trong các lần tái bản sau, chỉ mình Ph. Ăng-ghen ký tên nhưng bao giờ ông cũng khẳng định, tư tưởng chủ đạo, cơ bản trong “Tuyên ngôn” là hoàn toàn của C. Mác. Ông viết: “Người đã mất rồi, nên càng không thể nói đến việc sửa lại hay bổ sung “Tuyên ngôn” nữa. Do đó, tôi càng thấy cần nêu lên rõ ràng một lần nữa điều sau đây:

Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp - tư tưởng chủ chốt ấy hoàn toàn và tuyệt đối là của Mác”(3).

Sau này, trong Lời tựa cho những lần tái bản bằng các thứ tiếng khác nhau, Ph. Ăng-ghen vẫn nhất quán với phương pháp mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã nêu ra trong lời tựa đầu tiên. Một mặt, ông khẳng định tư tưởng chủ đạo của “Tuyên ngôn”; mặt khác, tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn những nội dung, cả chiến lược và sách lược của “Tuyên ngôn”. Chẳng hạn, khi viết cho Lời tựa tái bản bằng tiếng Nga năm 1882, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ vai trò của “nước Nga đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu Âu”. Đặc biệt, ông đã chỉ ra rằng nước Nga, với chế độ công xã nông thôn, “cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất”, mà không cần “phải trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây”. Từ thực tiễn ở nước Nga, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ điều kiện một nước nông nghiệp chưa qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản. Ông viết: “Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(4).

Chỉ dẫn thiên tài đó của Ph. Ăng-ghen đã làm phong phú thêm lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản của các nước khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Điều đó đã được cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga 35 năm sau - năm 1917 - chứng minh là hoàn toàn đúng bởi sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lý của “Tuyên ngôn” và chỉ dẫn bổ sung của Ph. Ăng-ghen do V.I. Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) Nga thực hiện.

Tiếp nối Cách mạng Tháng Mười Nga, tháng 5-1921, trong bài “Đông Dương” đăng trên Tạp chí Cộng sản (La Revue Communiste) số 15, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích điều kiện địa lý, lịch sử của châu Á và Đông Dương để chứng minh cho luận điểm của mình là “chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng”. Cách mạng Nga, cách mạng Việt Nam, cách mạng Trung Quốc… đã diễn ra và thu được thắng lợi vĩ đại là một minh chứng cho sức sống trường tồn của “Tuyên ngôn” và của những luận điểm Ph. Ăng-ghen đã bổ sung, mà “linh hồn sống” của nó chính là phép biện chứng duy vật, là sự trung thành kế thừa, đổi mới và phát triển.

Một vấn đề khác thuộc về cơ sở thực tiễn và phương pháp luận để thực hiện Cương lĩnh của những người cộng sản, mà “Tuyên ngôn” đã chỉ ra, là niềm tin vào sức mạnh của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ sự phát triển trí tuệ và tranh luận lý luận cùng đoàn kết hành động của họ. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức tái bản năm 1890, Ph. Ăng-ghen đã nhấn mạnh: “Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên lý đề ra trong “Tuyên ngôn”, Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của giai cấp công nhân, sự phát triển mà hành động chung và tranh luận chung nhất định sẽ mang lại”(5). Ông chỉ rõ, ngay từ khi viết “Tuyên ngôn”, hai tác giả đã nhận định rằng, “việc giải phóng những người lao động phải là sự nghiệp của bản thân những người lao động”(6). Điều đó thể hiện trong cuộc cách mạng Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định là phải đem sức ta mà giải phóng cho ta. Cả dân tộc Việt Nam không chỉ tự giải phóng khỏi ách áp bức của chế độ thực dân, đế quốc, mà còn tự giải phóng mình khỏi nghèo nàn, lạc hậu và đang vươn lên vị trí mới trên trường quốc tế. Đó là một minh chứng sinh động về tính bất diệt của “Tuyên ngôn”.

2- Nhân loại ngày nay đang thể hiện sức mạnh của mình bằng nền kinh tế tri thức, một giai cấp công nhân mới, hiện đại tiêu biểu cho nền kinh tế ấy đã xuất hiện trên toàn thế giới, đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã dự báo. Cơ sở để hiện thực hóa tư tưởng của “Tuyên ngôn” không những không biến mất, mà còn đang diễn ra vô cùng phong phú trên khắp hành tinh này.

Hơn bất cứ thời kỳ nào, thế kỷ XXI đang phát triển hợp quy luật mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra trong chương đầu của “Tuyên ngôn”: “Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất chật hẹp và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới”(7).

C. Mác và Ph. Ăng-ghen là những người theo chủ nghĩa quốc tế. Theo các ông, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng cuộc đấu tranh ấy có những bước đi, những giai đoạn mang tính quy luật - lúc đầu nó mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản phản động, bọn đế quốc phong kiến ở nước mình đã. “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc…”(8).

3- Chính V.I. Lê-nin đã phát triển tư tưởng nói trên của “Tuyên ngôn”. Ông cùng Quốc tế III bổ sung vào khẩu hiệu vĩ đại mà “Tuyên ngôn” nêu ra: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” thành “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Và thật kỳ diệu, năm 1923, trong tờ truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le Paria), Nguyễn Ái Quốc đã đề xuất khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”. Những khẩu hiệu cách mạng tiếp nối tư tưởng vĩ đại của “Tuyên ngôn” đã có sức lôi cuốn, dẫn dắt nhân dân các dân tộc bị đọa đày đau khổ, đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng, giành chính quyền.

Trong khi trung thành với tư tưởng quốc tế của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng thời vận dụng tài tình chỉ dẫn của “Tuyên ngôn”: “Trước hết giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân tộc”. Người còn phát triển tư tưởng ấy trên cơ sở phân tích sâu sắc đặc điểm của Việt Nam, chỉ ra sức mạnh và động lực vĩ đại của phong trào dân tộc. Thật thú vị biết bao, khi ngày nay đọc lại những luận điểm được viết ra từ một trái tim sôi nổi cách mạng và một trí tuệ mẫn tiệp không bị ràng buộc bởi thói quen bảo thủ, giáo điều, xa rời thực tiễn của chàng thanh niên xuất chúng Việt Nam khi mới 34 tuổi: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại… Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các xô-viết đảm nhiệm…”(9).

Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, trở lực trong thế kỷ XX đầy bão giông để cập bến bờ thắng lợi. Thực tiễn ấy là một minh chứng sức sống bất diệt của “Tuyên ngôn” nhờ “phát triển trí tuệ của phong trào công nhân”, mà người dẫn dắt là đội tiên phong của nó, một Đảng cách mạng chân chính, do biết trung thành, kiên định và đổi mới, phát triển lý luận cách mạng nên có được lý luận tiên phong, làm tròn nhiệm vụ của đảng tiên phong.

Thực tiễn ấy là một bộ sách bằng vàng bổ sung cho cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và biết bao chiến sĩ ưu tú của dân tộc Việt Nam đã bổ sung chủ nghĩa Mác bằng cơ sở lịch sử của nó - thực tiễn cách mạng của Việt Nam trong thế kỷ XX.

Kỷ niệm lần thứ 177 ngày ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, thực tiễn mới đang đòi hỏi thế hệ hôm nay theo bước chân của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tiếp tục làm giàu thêm cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác trong thế kỷ XXI, vận dụng sáng tạo vào đất nước Việt Nam thân yêu, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đó mới là cách chúng ta kỷ niệm ngày ra đời của “Tuyên ngôn” một cách nhiệt thành và thiết thực nhất./.

______________________

(1), (2) Mác - Ăng-ghen, Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t. 1, tr. 504; 504 - 505.

(3), (4) Mác - Ăng-ghen, Tuyển tập, Sđd, t. 1, tr. 509 - 510; tr. 508.

(5), (6), (7), (8) Mác - Ăng-ghen, Tuyển tập, Sđd, t. 1, tr. 524; 526; 545 - 546; 565.

(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 509 - 510.


Mới nhất Mới nhất

Đọc nhiều nhất Đọc nhiều nhất