Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
XDĐ - Thời gian qua, công kiểm tra, giám sát của Đảng có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đồng thời, góp phần quan trọng vào đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng
Kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm của ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp. Cấp ủy và UBKT các cấp thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Qua đó góp phần giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Theo báo cáo của UBKT Trung ương, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 12.308 tổ chức đảng, 36.826 đảng viên (có 19.190 cấp ủy viên các cấp). Qua kiểm tra, kết luận có 8.451 tổ chức đảng, 28.778 đảng viên có vi phạm; phải thi hành kỷ luật 1.073 tổ chức đảng, 13.142 đảng viên. Trong đó, UBKT các cấp đã kiểm tra 13.126 tổ chức đảng, 36.801 đảng viên. Riêng UBKT Trung ương kiểm tra 82 tổ chức đảng và 25 đảng viên; qua kiểm tra, UBKT Trung ương đã làm rõ, kết luận các vi phạm của tổ chức, cá nhân, đã quyết định thi hành kỷ luật đối với 259 tổ chức đảng (khiển trách 93, cảnh cáo 166 đảng viên) và 540 đảng viên (khiển trách 193, cảnh cáo 260, cách chức 22, khai trừ ra khỏi Đảng 65 trường hợp); đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 57 tổ chức đảng, 125 đảng viên; yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới thi hành kỷ luật nhiều tổ chức đảng và đảng viên. Nội dung kiểm tra tập trung vào những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội như: Công tác cán bộ; quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, đất đai, tài nguyên khoáng sản; chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý Nhà nước về sách giáo khoa; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện trách nhiệm nêu gương; mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; thực hiện các dự án đầu tư…
Tính riêng năm 2023, 2024, cấp ủy các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 699 tổ chức đảng và 4.767 đảng viên, có 1.514 cấp ủy viên (chiếm 31,76 %). Qua kiểm tra kết luận 446 tổ chức đảng (chiếm 63,8%) và 3.748 đảng viên (chiếm 78,62%) có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 185 tổ chức đảng (chiếm 26,47%) và 1.287 đảng viên (chiếm 26,7%).
Như vậy, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII đến nay, cấp ủy và UBKT các cấp đã chủ động nỗ lực, quyết tâm, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ, trọng tâm là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; có nhiều vụ việc vi phạm mới phát sinh được phát hiện, kiểm tra, xử lý kịp thời, nhiều vụ việc khó, phức tạp, tồn đọng nhiều năm được kiểm tra xử lý dứt điểm. Sau kiểm tra, đã xem xét trách nhiệm và xử lý nghiêm minh, kịp thời các tập thể, cá nhân vi phạm, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng; được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác kiểm tra, giám sát nói chung và kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm sau: 1- Một số địa phương, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy có lúc có nơi chưa thực sự quyết tâm, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; một số địa phương tiến hành kiểm tra, giám sát còn mang tính hình thức, chiếu lệ, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả thấp, chưa đủ sức răn đe; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, chưa nghiêm túc và chưa chủ động xử lý khi phát hiện vi phạm, khuyết điểm; 2- Một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện cho UBKT thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng. Kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy viên cùng cấp, người đứng đầu, người có chức vụ, quyền hạn và một số lĩnh vực như thanh tra, kiểm toán, phòng, chống tham nhũng, tư pháp, tổ chức cán bộ chưa thật mạnh mẽ. Việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý vi phạm trong nội bộ vẫn là khâu yếu; 3- Việc xác định nội dung kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn dàn trải, hình thức, chưa thực sự đi vào các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực hoặc những vấn đề đang gây bức xúc của địa phương, cơ quan, đơn vị. Sự phối hợp công tác giữa UBKT với các cơ quan có liên quan như thanh tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án… có lúc, có việc còn thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; 4- Một số nơi, cán bộ kiểm tra chưa chủ động bám sát cơ sở, nắm tình hình thu thập thông tin để nghiên cứu, phân tích, so sánh, sàng lọc, khoanh vùng, lựa chọn để phát hiện kịp thời dấu hiệu vi phạm; việc phát hiện dấu hiệu vi phạm thông qua giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề còn ít.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên là do: 1- Cơ chế, chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực chưa thật đầy đủ, còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, nhất là trong các lĩnh vực quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, đầu tư, quản lý doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, cổ phân hóa, y tế; việc phân định trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo địa phương, đơn vị chưa thật rõ ràng, cụ thể, dẫn đến khó khăn trong xác định trách nhiệm và xử lý vi phạm; 2- Năng lực, trình độ, bản lĩnh, kinh nghiệm của một số cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, trong khi những vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên ngày càng tinh vi, phức tạp; 3- Một số cấp ủy, cán bộ kiểm tra có tư tưởng nể nang, né tránh, ngại va chạm, chưa thực hiện tốt cơ chế phối hợp trong công tác kiểm tra giám sát giữa UBKT với một số cơ quan, đơn vị có liên quan,…

Một số bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy phải thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát ở địa phương, đơn vị một cách chủ động, thường xuyên, liên tục theo tinh thần “lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không lãnh đạo”. Thực tiễn cho thấy, ở đâu và khi nào người đứng đầu cấp ủy quan tâm, coi trọng và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra giám sát thì ở đó vai trò trách nhiệm của UBKT được phát huy, hoạt động kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh; nội bộ đoàn kết thống nhất; kỷ luật, kỷ cương được giữ vững, cán bộ, đảng viên ít vi phạm, thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt kết quả, xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, việc xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát phải thiết thực, đồng bộ, toàn diện, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, cơ quan, đơn vị trong từng thời kỳ, gắn với giải quyết các vấn đề mà đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân đang quan tâm. Kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo UBKT các cấp tham gia nắm chắc tình hình, kiểm tra và giải quyết nhanh chóng, quyết liệt các vụ việc khi có dấu hiệu vi phạm, không để tình trạng kéo dài. Trong kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm phải chủ động, kịp thời, chọn đúng thời điểm và đúng nội dung kiểm tra, tập trung vào những địa bàn, lĩnh vực dễ xảy ra vi phạm để kết luận rõ ràng, chính xác, khách quan, rõ đến đâu kết luận xử lý đến đó, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Việc xử lý kỷ luật phải nghiêm minh, song cần phải trên tinh thần nhân văn, “trị bệnh cứu người”, tình yêu thương đồng chí.
Thứ ba, phải xác định rõ vai trò, ý nghĩa, tác dụng của công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với hoạt động của Đảng, đó là: Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm làm trong sạch tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần quan trọng vào việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm không phải là “công cụ” để “trù dập” cán bộ, đảng viên; mà kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm nhằm giúp cho tổ chức đảng, đảng viên kịp thời nhận rõ ưu điểm để phát huy và thiếu sót, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục; để các cấp ủy, tổ chức đảng thấy rõ được trách nhiệm của mình, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong việc lãnh đạo, quản lý, giáo dục và kiểm tra, giám sát đảng viên; giúp cho công tác kiểm tra của cấp ủy và UBKT các cấp có “trọng tâm, trọng điểm”.
Thứ tư, thường xuyên chăm lo xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ UBKT và cơ quan UBKT các cấp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, cán bộ kiểm tra không những phải có năng lực, trình độ, chuyên môn giỏi, mà trước hết phải có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có dũng khí đấu tranh, công tâm, khách quan, chính trực, biết đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lên trên hết, trước hết.

Một số nhiệm vụ cần tiếp tục thực hiện hiệu quả trong thời gian tới
Một là, tăng cường nghiên cứu, quán triệt nâng cao nhận thức cho các cấp ủy, UBKT, đảng viên, cán bộ kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về vai trò, vị trí, mục đích, ý nghĩa của công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, bảo đảm thực hiện nghiêm quy định của Đảng về nhiệm vụ chính trị trọng tâm này. Cán bộ kiểm tra cần nêu cao trách nhiệm, có ý chí, bản lĩnh, dũng khí để chủ động phát hiện, tham mưu và thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ này trước hết là trong việc phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra.
Hai là, tăng cường và nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; không “khoán trắng”, cũng như không can thiệp quá sâu vào công việc chuyên môn của UBKT, tạo điều kiện thuận lợi cho UBKT trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; giữ vững nguyên tắc “không vùng cấm”, “không ngoại lệ”, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; tăng cường kiểm tra việc thực hiện kết luận sau kiểm tra.
Ba là, tiếp tục tập trung rà soát sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm bảo đảm khoa học đồng bộ thống nhất, khả thi; chú trọng đổi mới cải tiến các phương pháp, quy trình kiểm tra, nhất là công tác thẩm tra, xác minh, chủ động phòng ngừa ngăn chặn từ gốc vi phạm, khuyết điểm theo phương châm: lấy phòng ngừa, “xây” là chính, cơ bản, lâu dài; “chống” là quan trọng, cấp bách. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm về công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, công tác phòng, chống tham nhũng trong nước và quốc tế.
Bốn là, cấp ủy, UBKT thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, kiện toàn UBKT, cơ quan UBKT các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và củng cố đội ngũ cán bộ kiểm tra đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nghiệp vụ chuyên môn tinh thông đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trong giai đoạn mới hiện nay.
Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thẩm tra, xác minh trong quá trình kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; chủ động phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, viện kiểm sát, tòa án trong việc thu thập thông tin, tài liệu, xác định nhanh các nội dung vi phạm của các tổ chức đảng, đảng viên; chú trọng kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cũng như ban chỉ đạo của địa phương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí theo dõi, chỉ đạo…
Sáu là, nâng cao ý thức trách nhiệm của đối tượng kiểm tra nêu cao tính tự giác, tự phê bình, động viên, khuyến khích đối tượng kiểm tra phát huy tính đảng, tinh thần trách nhiệm, cầu thị; động viên, thuyết phục để đối tượng kiểm tra tự nhận thấy được vi phạm, khuyết điểm, dẫn đến tự soi, tự sửa chữa.
Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của cấp ủy và UBKT các cấp sẽ góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



Liên hệ gửi bài và đóng góp ý kiến
Liên hệ quảng cáo: 024 . 39429853